Pages

Thursday, December 17, 2009

Vietnam aims to counter China with sub deal: analysts

AFP
Vietnam aims to counter China with sub deal: analysts AFP/File – File photo of a Russian-made Kilo-class submarine belonging to the Chinese People's Liberation Army …
by Ian Timberlake Ian Timberlake 58 mins ago

HANOI (AFP) – Vietnam's major arms deal with Russia, reported to involve the purchase of six submarines, aims to bolster claims against China over potentially resource-rich islands in the South China Sea, analysts say.

While much of Vietnam's military hardware is antiquated, it has decided to devote substantial resources to developing an underwater fleet as concerns mount over tensions with its giant neighbour over the Paracel and Spratly archipelagos, they say.

"I think their primary rationale is to counteract the military build-up that the Chinese have had in the South China Sea," said Richard Bitzinger, a regional defence analyst with the S. Rajaratnam School of International Studies in Singapore.

Vietnam and Russia signed the long-planned deal on Tuesday during a visit by Prime Minister Nguyen Tan Dung to Moscow.

Details were not released but Russia's Interfax news agency reported that Vietnam had agreed to buy six Kilo-class diesel-electric submarines for about two billion dollars.

Vietnam's move is not surprising "given the concerns they have about the maritime environment, particularly in the South China Sea," said Peter Abigail, director of the Australian Strategic Policy Institute.

In the latest incident, Vietnam on Tuesday delivered a diplomatic note to the Chinese embassy in Hanoi demanding China return two fishing boats and equipment seized from Vietnamese fishermen in waters around the Paracels.

Vietnam has previously reported similar cases, and fishermen earlier this year said they were seeing an increasing number of armed Chinese patrol ships in disputed waters.

Taiwan also claims the Paracels -- which China occupies -- while the Spratlys are claimed in full or part by China and Vietnam as well as the Philippines, Malaysia, Brunei and Taiwan.

The sovereignty row has gone on for years. In 1988 Vietnam and China fought a brief naval battle near one of the Spratly reefs. More than 50 Vietnamese sailors died.

Two years ago a Chinese naval vessel fired at a Vietnamese fishing boat near the Spratlys, killing one sailor, reports said.

The archipelagos are considered strategic outposts with potentially vast oil and gas reserves, and rich fishing grounds.

Last week, Lieutenant General Nguyen Chi Vinh, Vietnam's deputy minister of defence, called the maritime tensions "a matter of concern".

That was the most forthright assessment yet by a Vietnamese defence official on the issue, said Carl Thayer, a Vietnam specialist with the Australian Defence Force Academy.

Vinh said the issue would not lead to conflict because international law provides a basis for a resolution, and Vietnam's policy is to ensure a peaceful outcome.

But Vietnam, with a long coastline and offshore oil potential, has faced a "strategic vulnerability" which it is now trying to address, Thayer said.

In Moscow, Dung confirmed only that the arms deal included submarines along with aircraft and "military equipment".

The aircraft order involved 12 Sukhoi Su-30MK2 warplanes worth more than 500 million dollars, Russia's Vedomosti newspaper reported earlier this year.

The fighters are among the world's most advanced and could provide air cover for the surface fleet, which Vietnam is seeking to enhance with new patrol craft, analysts say.

"What they're mostly trying to do is beef up their presence," Bitzinger said.

Vietnam's submarines will help to at least give it a capability of defending its maritime interests, Thayer said.

China's modernising military has prompted concern in the United States. Defence Secretary Robert Gates said US military power in the Pacific could be undermined, and a Pentagon report said China's weaponry and aircraft could enable it to carry out extended operations into the South China Sea.

While Vietnam's prime minister was signing the deal with Russia on Tuesday, his defence minister was on a rare visit to Washington where he held talks with Gates.

A Chinese embassy official in Hanoi, when asked to comment on the submarine deal, said Vietnam, Russia, and other countries in the area "must think about peace, and peace in the South China Sea."

Wednesday, December 16, 2009

NGUY CƠ MẤT NƯỚC VÀ MẤT DÂN TỘC VIỆT NAM

[bài thuyết trình tại Đại Hội Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Nam Cali]

Cựu Thẩm Phán Phạm Đình Hưng

Tình hình đất nước Việt Nam hiện nay vô cùng bi đát về mọi mặt. Dưới quyền cai trị độc tài chuyên chính và toàn trị của đảng Cộng sản Việt Nam từ 34 năm nay, nước Việt Nam thống nhứt hiện là một trong 10 nước nghèo nhứt trên thế giới và đang tự nguyện đưa đầu vào ách thống trị của Trung Quốc.

Hôm nay, tôi xin nói về một chủ đề nóng bỏng. Đó là Nguy Cơ Mất Nước và Mất Dân Tộc Việt Nam đang ló dạng trên quê hương thân yêu của chúng ta. Mới đây, trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Đinh Quang Anh Thái, ông Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ ở Đà Lạt cũng đã nói lên nguy cơ “Mất nước và Mất dân tộc” giống như tôi.

(Đinh Quang Anh Thái/Người Việt, “Mất dân tộc còn tệ hơn mất nước”, Người Việt số 8616 ngày 10 tháng 7, 2009, California, Hoa kỳ).

Nội dung bài thuyết trình của tôi hoàn toàn căn cứ vào các sự kiện cụ thể, các sách báo đứng đắn, các sử liệu chính xác và các nguồn tin khả tín của Trung Quốc.

Ngay từ năm 1962, chánh trị gia Ngô Đình Nhu, Cố vấn chánh trị của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đã có một nhận định chính xác về tương lai của nước Việt Nam. Trong quyển sách biên khảo rất công phu tựa đề “Chánh Đề Việt Nam”, tác giả Ngô Đình Nhu đã khẳng định rằng trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt giữa Bắc Việt cộng sản (nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và Miền Nam tự do (nước Việt Nam Cộng Hòa), nếu Bắc Việt thắng thì cả nước Việt Nam sẽ lệ thuộc Trung Quốc. Lời tiên đoán nầy của nhà chánh trị Ngô Đình Nhu ngày nay đã trở thành một sự thật đau lòng cho tất cả người Việt, ở trong nước và ngoài nước.

I- Nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh Việt Nam

Hai cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài 30 năm từ 1945 đến 1975 đã xảy ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh (Cold War) giữa Thế giới Tự do và hệ thống các nưóc xã hội chủ nghĩa.Theo tác giả Ngô Đình Nhu, nguyên nhân sâu xa của hai cuộc chiến tranh thảm khốc nầy là sự xung đột lâu đời của nước Nga với các nước Tây Âu và sự thù hận của Trung Quốc đối với các nước trong bác quốc liên quân đã tấn công và xâu xé nước Trung Hoa trong thế kỷ 19. Thua kém các nước Tây Âu và Bắc Mỹ về mặt khoa học kỹ thuật, hai đế quốc cộng sản Liên xô và Trung Quốc đã lợi dụng chủ nghĩa cộng sản của hai người Đức ở Tây Âu (Karl Marx và Frederic Engels) như một phương tiện để đánh phá các nước Tây phương từ trong nội bộ của các nước tư bản và từ các thuộc địa của các nước nầy ở châu Á và châu Phi.

Riêng tại Việt Nam, Liên xô và Trung Quốc đã sử dụng một cán bộ cộng sản đệ tam quốc tế từ năm 1924 là Hồ Chí Minh để tiến hành chiến tranh đánh phá Pháp và Hoa Kỳ nhằm mục đích bành trướng chế độ cộng sản trên khắp ba nước Đông Dương và Đông Nam Á. Hai cuộc chiến tranh gọi là “giải phóng dân tộc” và “thống nhứt đất nước” thật sự là hai cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” do hai đế quốc cộng sản Nga-Hoa chỉ đạo và viện trợ vì quyền lợi của họ. Trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam, vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc lớn hơn Liên xô vì các lý do sau đây:

1) Giáp giới Việt Nam, Trung Quốc là một đại quốc luôn luôn có tham vọng xác lập địa vị mẫu quốc đối với Việt Nam. Nhưng Trung Quốc đã mất ảnh hưởng đối với Việt Nam từ giữa thế kỷ 19. Giúp đỡ cho đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành chiến tranh sau đệ nhị Thế chiến tức là giúp đỡ cho Trung Quốc tái lập ảnh hưởng đối với Việt Nam.

2) Để tránh đụng chạm với Pháp, Liên xô từ 1945 đến 1950 đã không công nhận chánh quyền Hồ Chí Minh; Josef Stalin năm 1951 chỉ đồng ý cho Trung Quốc viện trợ đảng Cộng sản Việt Nam đánh Pháp nhưng từ chối viện trợ trực tiếp cho Hồ Chí Minh. Trái lại, ngay sau khi thống nhứt nước Trung Hoa năm 1949, Mao Trạch Đông đã lập tức công nhận chánh quyền Hồ Chí Minh năm 1950 và viện trợ dồi dào cho đảng Cộng sản Việt Nam về võ khí, lương thực, thuốc men, nhân lực (cố vấn chánh trị, cố vấn quân sự, binh sĩ) và huấn luyện đào tạo các cấp chỉ huy Việt Minh Viện trợ quân sự của Trung Hoa đã “giải tỏa Việt Minh khỏi vòng vây của quân đội Pháp”. Giải phóng quân Trung Quốc còn chủ động tham gia các trận đánh lớn ở Đông Khê, Thất khê và Điện biên phủ dưới quyền chỉ huy của hai tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến thắng Điện biên phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 đã giúp cho đảng Cộng sản Việt Nam chiếm được nửa nước Việt Nam.

(Xem tập tài liệu “Ghi Chép Thực Về Việc Đoàn Cố Vấn Quân Sự Trung Quốc Viện Trợ Việt Nam Chống Pháp”, Nhà Xuất bản Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc kinh, 2002)

Trong cuộc chiến tranh gọi là “chống Mỹ, cứu nước” từ năm 1956 đến năm 1975, Trung Quốc đã tăng cường viện trợ vô cùng hùng hậu cho Bắc Việt cộng sản về phương tiện chiến tranh và chuyên viên phòng không, đồng thời cho quân Tàu trú đóng tại các tỉnh biên giới Việt-Trung để gìn giữ an ninh lãnh thổ giúp cho quân đội Bắc Việt điều động xuống chiến trường miền Nam Việt Nam. Liên xô chỉ viện trợ (có hoàn lại) cho Bắc Việt một số võ khí nặng ( phi cơ, chiến xa, đại pháo) trị giá 10 tỷ đô la.

3) Từ khi từ Moscowa về Diên An (thủ đô của Hồng quân Trung Quốc) năm 1938 đầu quân Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh đã tận tình phục vụ Trung Quốc nhiều hơn Liên xô vì Ông ta đã bị thất sủng trong một thời gian dài từ 1932 đến 1938 và suýt bị Stalin giết chết năm 1935. Theo tiết lộ của một nhân vật Tình báo Tàu trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam, Hồ Chí Minh đã gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi trở về hoạt động tại Hoa Nam và trong hang Pác Bó ở tỉnh Cao Bằng, ông Hồ đã thi hành công tác của một đảng viên do đảng cộng sản Trung Quốc giao phó. Ngoài viên chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam, một nhân vật cao cấp trong phái đoàn thương thuyết của Trung Quốc về ranh giới mới trên đất liền và biển cả giữa Trung Quốc và Việt Nam còn đe dọa Trung Quốc sẽ công bố các cam kết bí mật của Hồ Chí Minh với đảng Cộng sản Trung Quốc để làm tiêu tan sự nghiệp (legacy) của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam

II – Tham vọng bá quyền của Trung Quốc và các hành động bán nước của đảng Cộng sản Việt Nam

Từ ngàn xưa, Hán tộc luôn luôn nuôi tham vọng bành trướng xuống phía Nam và tìm đường đi ra biển từ hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây. Nhưng họ đã vấp phải sự đối kháng mãnh liệt và hữu hiệu của dân tộc Việt Nam, một dân tộc thông minh và kiêu dũng trong dòng Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử đã bẻ gãy tất cả các cuộc xâm lăng võ trang từ phương Bắc để bảo tồn độc lập của nước Việt Nam.

Trước tham vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc hiện nay, Việt Nam là nạn nhân đầu tiên của thiên triều Bắc kinh. Từ xưa đến nay, người Tàu luôn luôn xem nước Việt Nam là một quận, huyện của Trung Quốc. Trải qua 2000 năm lịch sử, nước Việt Nam chúng ta đã phải hứng chịu nhiều đau khổ và tũi nhục trong 1000 năm Bắc thuộc trước khi Ngô Quyền tranh thủ được nền độc lập của nước nhà năm 938. Tổ tiên chúng ta đã bao lần anh dũng chống ngoại xâm từ phương Bắc để gìn giữ độc lập của nước nhà và duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Tinh thần quốc gia dân tộc của tổ tiên chúng ta rất vững mạnh và kiên cường. Thành tích giữ nước vẻ vang của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung Nguyễn Huệ đã nhắc nhở người Việt Nam chúng ta đương thời nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam chống lại âm mưu thôn tính của Trung Quốc với sự tiếp tay của bọn tay sai bán nước là đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thời đại ngày nay, Trung Quốc đã áp dụng một chiến lược thôn tính Việt Nam rất tinh vi và hiểm độc. Để thực hiện dễ dàng tham vọng bành trướng xuống phía Nam của Trung Quốc, người Tàu cần phải phá tan tinh thần đoàn kết của người Việt Nam và tiêu diệt sinh lực của dân tộc Việt. Nhằm mục đích thâm độc nầy, đảng Cộng sản Trung Quốc đã sai khiến Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam liên tục tiến hành chiến tranh trong 30 năm để tàn phá nặng nề đất nước Việt Nam, giết chết cả chục triệu người dân Việt và chia rẽ dân tộc Việt về ý thức hệ, thành phần giai cấp, địa phương, tôn giáo và đảng phái. Cuộc xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc đã thật sự bắt đầu từ năm 1950 với kế hoạch viện trợ cho Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Viêt Nam đánh Pháp để chiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia. Trong thời gian viện trợ cho Việt Cộng gây nội chiến dưới chiêu bài đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trung Cộng đã có đủ thời giờ điều nghiên các vị trí chiến lược trọng yếu của Việt Nam và bố trí cán bộ gốc Hoa và thân Tàu vào các chức vụ chỉ huy trong Quân đội, Công an, Tình báo, bộ máy Nhà nước và các cấp ủy đảng để sẵn sàng thực hiện âm mưu thôn tính Việt Nam. Đồng thời với việc âm thầm chỉ đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, Trung Quốc đã áp dụng chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” để từng bước lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam thay vì sử dụng võ lực tấn công ồ ạt như đã làm trong quá khứ. Với sự hợp tác tự nguyện của Hồ Chí Minh, hậu duệ của ông ta và tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, kế hoạch tầm ăn dâu nầy của Trung Quốc đã đạt nhiều kết quả trong âm mưu đô hộ Việt Nam. Theo lịnh của Trung Quốc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã đả kích chủ nghĩa quốc gia dân tộc là cục bộ địa phương cần phải gạt bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa quốc tế đại đồng. Để phục vụ thiên triều Bắc kinh, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngần ngại dâng hiến quan thầy Tàu một phần đáng kể lãnh thổ do tiền nhân chúng ta dầy công xây đắp và bảo vệ. Các hành động bán nước kể sau của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam cần phải được phơi bày ra trước ánh sáng để lịch sử và các thế hệ trẻ Việt nam sanh sau năm 1975 cùng thế giới văn minh phán xét:

1) Chuyển nhượng cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Do quyết định của Hồ Chí Minh và bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt Nam, Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (miền Bắc cộng sản), Phạm văn Đồng đã chánh thức gởi đến Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai giác thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 ủng hộ bản Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc xác định chủ quyền của nước nầy trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào thời điểm nầy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam tự do) vì nằm dưới vĩ tuyến 17. Khi Hải quân Trung Quốc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa và bị Hải quân Việt Nam Cộng Hòa chận đánh ngày 19 tháng 1 năm 1974 để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ Việt Nam, Hà nội đã giữ thái độ im lặng hoàn toàn. Quyết định bán nước và thái độ bàng quang của Hà nội đã chứng minh Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt quyền lợi của Cộng sản quốc tế trên quyền lợi quốc gia. Đây là hành động phản bội Tổ quốc đầu tiên của đảng Cộng sản Việt Nam đã phạm trong thời bình để trả nợ chiến tranh cho Trung Quốc và đền đáp ơn nghĩa của Trung Quốc đã giúp đỡ Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam lên ngai vàng tại Bắc bộ phủ và ngự trị trên miền Bắc Việt Nam sau chiến thắng Điện biên phủ nhờ sự trợ giúp của tướng Trung Quốc Vi Quốc Thanh và pháo binh Trung Cộng. Tham vọng quyền lực đã thúc đẩy Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam tích cực phục vụ Trung Quốc, mở đường cho Hán tộc bành trướng xuống Đông Dương và Đông Nam Á, tiến chiếm biển Đông (South China Sea), đặt căn cứ hải quân trên quần đảo Hoàng Sa, khống chế con đường đi ra hải phận quốc tế của Việt Nam và kiểm soát giao lưu hàng hải quốc tế giữa Thái bình dương và Ấn độ dương. Quyết định chuyển nhượng âm thầm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc chứng tỏ đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nhân thật sự của đất nước Việt Nam có quyền cho không hay bán một phần lãnh thổ mà không cần phải thông báo Quốc Hội hay xin Quốc Hội phê chuẩn

Hậu quả của giác thư Phạm văn Đồng năm 1958 vô cùng trầm trọng. Hiện nay, chúng ta không thể biết ngày nào có thể thâu hồi quần đảo Hoàng Sa về Tổ quốc Viêt Nam. Ngày đó chỉ đến sau khi đế quốc cộng sản Trung Hoa tan rã.

2) Cắt đất ở biên giới Việt-Hoa dâng cho Trung Quốc

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, đảng Cộng sản là một nhà cầm quyền đã dám cắt một phần đất của Tổ Quốc để dâng cho ngoại bang bất chấp luật pháp nghiêm minh của tiền nhân: trong Quốc Triều Hình Luật do Nguyễn Trải soạn thảo có một điều khỏan phạt tử hình người dân bán đất thuộc quyền sở hữu của mình cho ngoại nhân.

Sau chuyến đi năm 1992 của bộ ba Đỗ Mười-Lê Đức Anh-Phạm văn Đồng đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, cầu hòa và dập đầu xưng thần với thiên triều Bắc kinh, đảng Cộng sản Việt Nam đã chuẩn bị một cống phẩm đầu tiên để lấy lòng quan thầy: dâng hiến Trung Quốc một phần đất liền dọc theo sáu tỉnh biên giới Việt-Hoa coi như trả một phần món nợ viện trợ của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai để đánh chiếm miền Nam, đào sâu thêm hận thù dân tộc và giết chết thêm cả chục triệu người Việt Nam vô tội. Cống phẩm nầy đã được dâng lên Bắc kinh bằng việc ký kết hiệp ước phân định lại biên giới Việt Hoa ngày 30-12-1999 theo chỉ thị của Lê Khả Phiêu, người lãnh tụ số 1 của đảng Cộng sản Việt Nam đã bị Bắc kinh sai khiến một cách dễ dàng vì đã lở dại sa vào mỹ nhân kế của người Tàu. Được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn nhanh chóng, hiệp ước bán nước nầy đã chuyển nhượng cho Trung Quốc trên 1,000 kí lô mét vuông đất liền ở biên giới Việt Hoa, tách rời khỏi lãnh thổ Việt Nam một số địa danh quan trọng như phía Bắc Sa Pa, ãi Nam Quan, thác Bản Giốc. Không màng đến trọng tội bán nước, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã cùng với Trung Quốc tổ chức liên hoan ăn mừng việc hoàn thành công tác cắm cọc biên giới mới có lợi cho Trung Quốc.

3) Phân chia lại Vịnh Bắc Việt (Golf of Tonkin)

Hiệp ước 1887 ký kết giữa đại diện Pháp quốc Patenotre và đại diện Đại Thanh Lý Hồng Chương đã phân chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ như sau: Việt Nam: 63%, Đại Thanh: 37%. Nhưng năm 2000, Trung Quốc đòi phân chia lại Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50. Dưới tác động và ảnh hưởng của Trung Quốc, Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương và Chủ tịch Quốc Hội Nông Đức Mạnh đã thỏa hiệp ký kết hiệp ước về Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000 để đáp ứng yêu sách của Trung Quốc nhưng chỉ muốn xin lại 6% mà thôi. Theo hiệp ước mới nầy, Việt Nam mất 14,000 kí lô mét vuông biển trong Vịnh Bắc Việt. Trước sự ngoan ngoản của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam, Thủ tướng Chu Dung Cơ của Trung Quốc, người thay thế Lý Bằng, thông báo sẽ chuyển giao cho Việt Nam cộng sản 2 tỷ Mỹ kim dưới hình thức đầu tư. Số tiền lớn nầy được Trung Quốc xem như tiền mua một phần biển của Việt Nam trong Vịnh Bắc Việt. Một sự thật không thể chối cải là Cộng sản Việt Nam đã bán biển cho Trung Quốc để lấy 2 tỷ Mỹ kim và đã không bảo vệ quyền lợi của quốc gia Việt Nam bằng nhà cầm quyền thực dân Pháp. Vì vụ bán nước lần thứ ba nầy quá lớn, Quốc Hội bù nhìn của Cộng sản Việt Nam đã trì hoản đến năm 2004 mới âm thầm phê chuẩn hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt. Trong khi gia tăng áp lực đối với đảng Cộng sản Việt Nam để nhanh chóng ký kết hiệp ước bán biển trong Vịnh Bắc Việt, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Bằng đã nhiều lần bộc lộ cảm tình với Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc Hội Việt Nam cộng sản, và bày tỏ ý muốn Nông Đức Mạnh sẽ là Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam. Nông Đức Mạnh là hậu duệ của Hồ Chí Minh được Trung Quốc hậu thuẫn mạnh mẽ để tiếp nối sự nghiệp bán nước của cha y.

4) Hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả

Các cống phẩm “dâng đất biên giới, hiến biển Vịnh Bắc Việt” của tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chưa thỏa mãn tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc. Bộ Chánh trị đảng Cộng sản Việt Nam lại nhận thêm một yêu sách mới: Chuyển nhương cho Trung Quốc 22,000 (hai mươi hai ngàn) kí lô mét vuông biển Việt Nam từ Quảng Ninh đến Quảng Ngải dưới hình thức hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên của biển cả giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam. Đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, một hiệp ước thứ ba đã được bí mật ký kết năm 2000 để giao cho Trung Quốc trọn quyền kiểm soát và khai thác biển Đông nằm trong lãnh hải, vùng tiếp cận lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía Bắc Quảng Ngải (vĩ tuyến 15). Căn cứ vào hiệp ước nầy, Trung Quốc đã ngang nhiên cấm đánh cá trong các vùng biển của Việt Nam, bắn giết và bắt phạt ngư dân Việt Nam vi phạm các biện pháp hành chánh của họ, xua đuổi hai công ty British Petrolium và Exxon-Mobile không được hợp tác với Việt Nam cộng sản thăm dò và khai thác dầu khí trong các vùng biển của Việt Nam. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không dám phản đối Trung Quốc để bảo vệ quyền lợi của quốc gia và ngư dân Việt Nam.

Hiệp ước hợp tác đánh cá và khai thác tài nguyên ký kết với Trung Quốc năm 2000 đã được nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam xem như một hợp đồng nên khỏi cần được Quốc Hội bù nhìn phê chuẩn. Hiệp ước nầy đã mở đường cho đế quốc cộng sản Trung Hoa chiếm hữu biển Đông và công bố bản đồ “Lưỡi Bò”bao gồm 80% biển Đông và thu hẹp lãnh hải Viêt Nam dưới 12 hải lý.

Để chánh thức hóa sự chuyển nhượng vĩnh viễn cho Trung Quốc quần đảo Hoàng Sa (nằm trên vĩ tuyến 17) và các vùng biển Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 15 (Quảng Ngải), nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã không đệ nạp Liên Hiệp Quốc hồ sơ thềm lục địa Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 15 và tuyên bố không có tranh chấp trong vùng biển nầy (vì đã chuyển nhượng cho Trung Quốc)

5) Hợp tác khai thác bô xít (bauxite) tại Cao nguyên Trung Phần

Dưới hình thức hợp tác khai thác bô xít để lấy Alumina, Trung Quốc đã và đang tiến hành âm mưu xâm chiếm Cao nguyên Trung phần, một vị trí chiến lược sanh tử của Việt Nam. Sau khi khống chế các vùng biển của Việt Nam ở phía Đông, Trung Quốc có khả năng thành lập một khu tự trị của người Hoa và người sắc tộc thiểu số trên Cao nguyên Trung phần ở phía Tây và tách rời nước Việt Nam ra hai miền để làm suy yếu sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Kế hoạch “Diễn Biến Hòa Bình” sẽ giúp cho Trung Quốc thôn tính và Hán hóa Việt Nam với sự tiếp tay của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hiện nay do Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang cầm đầu. Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước hiểm họa Bắc thuộc lần thứ hai.

Hậu quả về an ninh quốc gia của vấn đề Trung Quốc khai thác bô xít trên cao nguyên Trung phần nghiêm trọng hơn vấn đề ô nhiễm môi sinh và nhiễm độc nguồn nước của các con sông Là Ngà, Đồng Nai, Sông Bé và Sài gòn cung cấp nước tiêu dùng cho dân cư các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và thành phố Sài gòn. Hai hâu quả tai hại nầy sẽ quyết định sự sinh tồn của đất nước và dân tộc Việt Nam. Mặc dầu có sự chống đối của một số cựu tướng lãnh cộng sản như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và một số đông trí thức trong nước do giáo sư Nguyễn Huệ Chi đứng đầu, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn nhứt quyết tiến hành dự án khai thác bauxite tại Cao nguyên Trung phần vì theo lời của viên chánh ủy cơ quan Tình báo Hoa Nam “tiền đã trao, cháo phải múc”.

III - Âm mưu sáp nhập nước Việt Nam vào Trung Quốc và Hán hóa dân tộc Việt Nam

Tham vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc đã được bộc lộ rõ rệt trong một cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam. Tài liệu mật về cuộc họp nầy đã được công bố trên Internet và đăng tải trên nhựt báo Sài gòn Nhỏ số 226 ra ngày 03-07-2009.

Tổng kết cuộc họp, viên Chánh ủy Tổng Cục Tình báo Hoa Nam đã nêu ra một số ý chánh, trích dẫn nguyên văn như sau:

- Hội nghị đã “bàn về chuyện hợp nhất hai quốc gia trong tương lai

- “Hợp kết Trung Quốc Việt Nam có thể là một mốc lịch sử vĩ đại trên đường phát triển của tổ quốc”

- “Trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn chọn lựa nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với Tổ quốc Trung Hoa vĩ đại”

- “Việc Việt Nam trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại là việc trước sau sẽ phải đến. Không sớm thì muộn. Mà sớm thì hơn muộn. Trong lịch sử, Việt nam từng là quận, huyện của Trung Quốc, là một nhánh của cây đại thụ Trung Hoa.”

- “Sự lựa chọn (giữa Trung Quốc và Hoa kỳ) chỉ còn có một. Và ở đây, các đồng chí Việt Nam tỏ ra có lựa chọn đúng. Ngày nay, Trung Quốc vĩ đại phải dành lại vị trí đã có của mình. Có Việt Nam nhập vào, Trung Quốc đã vĩ đại lại càng thêm vĩ đại.”

- “Trong tướng lĩnh, phần nhiều là người của ta, do ta đào tạo, cất nhắc. Công nầy là nguyên chủ tịch Lê (tức là Lê Đức Anh), người rất biết nhìn xa trông rộng”.

- “Tăng cường viết và nói hằng ngày, hằng giờ, biện luận cho dân thấy cái lợi của việc sát nhập”.

- “Một khi Việt Nam đã nhập vào Trung Quốc thì vùng Tây nguyên của Việt Nam là của chung nước ta”.

- “Phải trấn an các cán bộ các cấp, từ trung ương đến địa phương để họ thấy rằng sau khi hợp nhất, mọi vị trí, quyền lợi, bổng lộc của họ không bị suy suyển. Các đơn vị hành chánh sẽ được giữ nguyên trong một thời gian dài trước khi áp dụng mô hình hành chánh chung của toàn quốc”.

- “Trong thời đại hiện nay…., sự sát nhập trở lại của Việt nam và toàn bán đảo Đông Dương tiếp theo là điều tất yếu”.

- “Việc cuối cùng là mô hình quản trị Việt nam trong tổ quốc thống nhứt. Tỉnh hay khu tự trị”.

Trong khi tổng kết hay hiểu thị, viên chánh ủy Tàu họ Lương còn tiết lộ hai bí mật liên quan đến Hồ Chí Minh và Nông Đức Mạnh, nguyên văn như sau:

1) “ Trung Quốc và Việt Nam là một. Đó là chân lý đời đời. Đó cũng là lời của Hồ đồng chí (tức là Hồ Chí Minh) trong lễ tuyên thệ gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. Hồ đồng chí tôn kính còn dạy: Trung Quốc và Việt Nam như môi với răng. Môi hở thì răng lạnh. Có nghĩa là hai nước là hai bộ phận trong cùng một cơ thể”.

2) “Nông đồng chí (tức là đồng chí Nông Đức Mạnh) từng tự hào nhận mình là người Choang (Zhuang) trong cuộc gặp gở các đại biểu trong Quốc vụ viện. Mà dân tộc Choang là gì? Là một bộ phận của đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.

Nông Đức Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh đã có với người nữ cán bộ hộ lý tên Nông thị Ngác bí danh Nông thị Trưng trong thời gian ẩn trú trong hang Pác Bó ở Cao Bằng năm 1940.

Nói tóm lại, nếu bản tổng kết cuộc họp mật giữa Tổng Cục Tình báo Hoa Nam và Tổng Cục 2 Việt Nam sẽ được Trung Quốc thực hiện nay mai với sự cộng tác của các Thái thú Trung Quốc trong đảng Cộng sản Việt Nam thì nước Việt Nam sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt sẽ bị Hán hóa và trở thành một dân tộc thiểu số trong đế quốc cộng sản Trung Hoa giống như Tây Tạng, Mông Cổ, Mãn Châu và Hồi Cương dưới quyền thống trị của Hán tộc. Đồng bào người Việt ở trong nước và ngoài nước có lưu ý đến các vụ nhà cầm quyền Trung Quốc thẳng tay đàn áp và giết người dã man đã và đang xảy ra tại Tây Tạng và Tân Cương hay không? Đứng trước nguy cơ mất nước và mất dân tộc hiện nay, chỉ có Nhân dân Việt Nam mới có đủ sức mạnh cứu nước và dân tộc ra khỏi đại họa thống trị và đồng hóa của đế quốc cộng sản Hán tộc. Đã đến lúc toàn dân Việt ở trong và ngoài nước phải dũng cảm đứng dậy liên kết chiến đấu đập tan họa nội xâm và họa ngoại xâm, thành lập nền Đệ Tam Cộng Hòa Việt Nam trên nền tảng dân chủ pháp trị để bảo vệ sự sinh tồn của Tổ quốc và Dân tộc Việt Nam

PHẠM ĐÌNH HƯNG

Monday, December 14, 2009

Nhóm Harvard đã giải đáp vấn đề then chốt này

Nhóm Harvard đã giải đáp
vấn đề then chốt này

Bùi Tín

“…Kinh tế thân hữu, kinh tế mật hữu, kinh tế phe nhóm, kinh tế cánh hẩu, kinh tế kiếm chác, kinh tế tầm gửi (dựa dẫm viện trợ và đi vay ODA và ngoại hối từ nước ngoài) nói lên thực chất chế độ chính trị xuống cấp thê thảm hiện nay…”

Trong nước dư luận báo chí và công luận xã hội đang xôn xao bàn tán về những chuyện rắc rối, khó hiểu trong cuộc sống. Biết bao câu hỏi “vì sao? vì sao?” được đặt ra, chưa có lời giải đáp thoả đáng.

Vì sao bà Ba Sương được họ phong "Anh hùng thời đổi mới", "đảng viên xuất sắc" 10 năm liền, huân chương Lao động, "Phụ nữ ấn tượng của châu Á - Thái Bình Dương " năm 2002 ...lại bị truy tố ra trước vành móng ngựa, tự giải trình hàng chục lần là mình vô tội, rồi bị kết án 8 năm tù giam? Báo trong nước kêu lên: "Hiện tại bắn đại bác vào quá khứ", "Cơ chế mới kết tội cơ chế cũ" ...nhưng không giải thích được vì sao.

Vì sao tướng công an Trần Văn Thanh, thanh tra bộ công an, đang oanh liệt một thời, lại bị truy tố, đứng trước vành móng ngựa toà án Đà Nẵng rồi đưa về trại giam chờ phiên toà phúc thẩm khi đang bị bệnh nặng tim và tiểu đường?

Vì sao vụ án PMU 18 với bị cáo chính Bùi Tiến Dũng kéo dài lê thê hơn 4 năm trời, làm cho những cam kết long trọng "kiên quyết (!), khẩn trương (!) chống tham nhũng như chống giặc nội xâm" của những người lãnh đạo cao nhất như trò đùa dai, tự mỉa mai mình?

Vì sao Huỳnh Ngọc Sỹ ăn hối lộ hơn 800 ngàn đôla, có bằng chứng pháp lý hơn 3 ngàn trang do bộ tư pháp Nhật cung cấp lại chỉ bị kết án có 3 năm tù, "vì nhân thân tốt ", "từng có nhiều cống hiến", để báo Thanh Niên phải kêu lên là "tội bằng con voi lại phạt bằng con kiến"? Thật ra nền tư pháp độc quyền đã đánh tráo vụ án ăn hối lộ của công ty Nhật thành vụ án cho thuê nhà công để lấy tiền chia nhau! Các bloggers trong nước gọi đây là "trò xiếc" bẩn của ngành xử án nước nhà.

Hàng ngàn, hàng vạn câu hỏi "vì sao?" như thế đang làm nát óc các nhà báo, các công dân quan tâm đến thời cuộc, các nhà trí thức dân tộc của "mạng Bauxite Vietnam.info", của Viện VDS, của hàng triệu dân đen và dày vò hành hạ vô vàn người bị kết án, tù đày oan ức.

Thì đây, những bản báo cáo của Nhóm tư vấn của trường Đại học Harvard Mỹ có mặt tại Hà Nội hơn 3 năm nay để góp ý cho thủ tướng và giới cầm quyền đã cung cấp chiếc chìa khoá để giải đáp các câu hỏi "Vì sao?" trên đây.

Nhóm tư vấn này gồm có các giáo sư Mỹ và vài nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Việt.

Họ dùng từ "crony economy" để chỉ ra nền kinh tế đang ngự trị ở Việt Nam, từ đó nhận diện căn cước của chế độ chính trị hiện hành.

Chữ tiếng Anh "crony" có nghĩa là bạn rất thân, từ điển Anh ghi thêm "close friend", "companion", "partner", thêm các từ cùng nghĩa: "chum", "pal", "buddy", có thể dịch ra tiếng Việt là: bạn nối khố, bạn tâm giao, cánh hẩu, bạn cật ruột...

Tiếng Trung hoa gần đây có dùng từ "thân hữu kinh tế", "mật hữu (bạn cực thân) kinh tế", "gia tộc kinh tế"... chỉ nền kinh tế đặc trưng trên lục địa Trung Hoa hiện nay.

Từ trên đây, có thể nói chế độ kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay không còn gì là bản chất giai cấp vô sản, giai cấp công nhân, hay bản chất dân tộc, như tài liệu chính thức của Học viện chính trị Hồ Chí Minh rao giảng.

Vậy thì chế độ chính trị còn mang chất Cộng sản không? Đây là vấn đề phức tạp, lại rất cần làm rõ. Có ý kiến cho rằng chất cộng sản không còn gì, đảng CS chỉ còn cái vỏ, cái tên gọi; người cộng sản nay đã trở thành tư sản, địa chủ, nhà kinh doanh, có tài sản, nhà cửa, bất động sản, có nhà đất cho thuê, có ngân khoản gửi ngân hàng lấy lãi, có vàng bạc quý kim cất giấu.

Hơn nữa Đảng cộng sản đang trải qua một cuộc khủng hoảng, một cuộc đảo lộn sâu sắc trong nội bộ, một cuộc thoái trào, sa sút về phẩm chất chính trị và đạo đức, cái hình thức đoàn kết, gắn bó, thống nhất ngày xưa đã tan vỡ, rã rời, sự phân hoá giai cấp ở 2 đầu ngay trong đảng đã hiển nhiên.

Phần lớn đảng viên cao cấp cầm quyền đã thành tư sản hay tư sản mại bản, tư sản chứng khoán, tư sản nhà đất, tư sản quan liêu tham nhũng ăn bám, có kẻ thành tư sản kiêm địa chủ, có người thành nhà kinh doanh, chủ công ty, hùn vốn các công ty xuất nhập khẩu; một số đảng viên cầm quyền ở nông thôn trở thành địa chủ, phú nông, một số thành cường hào mới, có cả cường hào gian ác, như bà con nông dân ở Quảng Nam, Nghệ An và Bình Dương tố cáo.

Mặt khác một số đảng viên bình thường không có thế lực chính trị làm chỗ dựa, ở thành thị cũng như ở nông thôn, chỉ là công dân bình thường, công nhân bình thường, viên chức bình thường, thành trung nông; cũng có số ít đảng viên, gia đình liệt sỹ, cựu chiến binh thất thế trở thành vô sản, mất đất mất nhà, do bọn đảng viên cường hào hiếp đáp, có khi thất nghiệp phải ra thành phố kiếm việc vặt hay thành đội quân cửu vạn, bốc vác cho con buôn...Họ bị những đồng chí của mình bóc lột và đàn áp thẳng tay.

Đảng CS đã thay đổi sâu sắc, phân hoá mạnh, nhưng về đường lối chính trị, nhóm lãnh đạo vẫn duy trì nguyên vẹn cái cốt lõi tệ hại nhất, đó là độc quyền chuyên chính, độc quyền cai trị, ngăn chặn bằng bạo lực mọi xu thế dân chủ hoá, đa nguyên đa đảng hoá xã hội. Chính đây là chỗ mạnh mong manh tạm thời và cũng là chỗ yếu cơ bản, là tử địa của nó khi đất nước đã mở cửa và hội nhập quốc tế.

Không ít đảng viên cộng sản lâu năm, là viên chức, trí thức dân tộc, có lương tâm, yêu nước, thương dân, - tiền bạc không mua được, chức tước không ham - , cuộc sống tạm đủ ăn, sống trong sạch, tỉnh táo nhận ra tình hình sa sút của đất nước, lo lắng thấy đạo đức suy đồi, ngay thẳng chỉ rõ lối ra là dân chủ hoá cho đất nước, nhưng bị vu cáo, cô lập, cấm phản biện; anh chị em báo động khi Tổ quốc lâm nguy, chủ quyền quốc gia bị đe doạ, đất biển đảo bị lấn chiếm, từ đó chán đảng, ngừng sinh hoạt đảng, mong muốn có một đảng khác lãnh đạo đất nước, một đảng trong sạch, dân chủ, chí cốt với dân tộc, bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn, gắn bó với thế giới dân chủ của thời hiện đại. Đảng này có thể thi đua, ganh đua với đảng CS, tạo nên sinh khí chính trị, góp phần thúc đẩy đảng CS phải hoàn thiện mình, lấy xã hội làm trọng tài, sẽ có lợi nhiều mặt cho đất nước.

Các nhà lãnh đạo CS đang kêu trời về tình trạng "nhạt đảng", “nhạt lý tưởng" của đảng viên, về hiện tượng "tự diễn biến", "tự huỷ diệt" của đảng CS. Họ rất lo khi các ông Trần Độ, Bùi Minh Quốc, Phạm Quế Dương, Lê Hồng Hà..., gần đây là nhà văn-nhà báo Phạm Đình Trọng tuyên bố vĩnh biệt đảng "vì đảng không còn đáng tin nữa".

Chỉ có dân chủ thứ thật, dân chủ từ trên xuống dưới, chứ không phải ngược đời là "dân chủ ở cơ sở đã" (!), mới có thể chấm dứt cái cơ chế kỳ lạ hiện nay, chấm dứt một xã hội mà căn cước không rõ ràng, tư bản không ra tư bản, cộng sản không hẳn cộng sản, dân chủ không ra dân chủ, chắp vá hỗn độn, tiếp nhận toàn những điều xấu nhất của phong kiến, tư bản lũng đoạn, xã hội chủ nghĩa thực tiễn theo mô hình Staline và Mao...

Kinh tế thân hữu, kinh tế mật hữu, kinh tế phe nhóm, kinh tế cánh hẩu, kinh tế kiếm chác, kinh tế tầm gửi (dựa dẫm viện trợ và đi vay ODA và ngoại hối từ nước ngoài) nói lên thực chất chế độ chính trị xuống cấp thê thảm hiện nay.

Các đặc điểm trên phơi bày các mối quan hệ chằng chịt trong một xã hội cực kỳ hỗn loạn. 15 nhân vật trong bộ chính trị, mỗi người có phe cánh, bộ hạ, cánh hẩu riêng của mình về chính trị, kinh tế, tài chính, đối ngoại. Ở các tỉnh, huyện cũng có những lãnh tụ riêng, nhóm ảnh hưởng, phe cánh riêng, hùn hạp hay sát phạt nhau. Họ có những đàn anh đỡ đầu ở trung ương, có tay chân bộ hạ tay sai ở cơ sở, có khi còn dùng cả bọn xã hội đen. Đó là những sứ quân cát cứ.

Trong cái xã hội đỏ đen lẫn lộn, giá trị "lộn tùng phèo" này, các hiện tượng phổ biến đầy rẫy như "thư riêng", "phong bì", "hoa hồng", "lại quả", "lót tay", “nhấm nháy", "ô dù", người thân tín của bác Ba, chú Năm, anh Bảy, cô Tám, cụ Mười..., và đủ loại "cò" làm cái việc "mưu sĩ", "chỉ trỏ", "mối lái", “mở đường", "gõ cửa", "kết thân", những ma cô mới nhan nhản của "nền kinh tế lợi ích riêng" đầy mưu mô, mánh mung, chụp giựt này.

Với nền kinh tế độc đáo trên, lợi ích dân tộc là phù phiếm, lợi ích nhân dân là trên giấy, tài sản chung bị xẻ thịt chia chác cho các phe nhóm, y như ở Trung Quốc hiện nay, chừng 0,40% dân số chiếm 70% tài sản chung, còn 99,60 nhân dân chia nhau 30% tài sản còn lại. [Ở Việt Nam, vào khoảng 40 vạn số "dân có phe cánh" ngự trị trên lưng 82 triệu dân chúng bơ vơ mất quyền công dân]. Sự chênh lệch giàu/nghèo là kinh khủng, kẻ tham nhũng bất tài gian manh phất lên như tên lửa, người lao động lương thiện thất thế thì nghèo đói thê thảm. Đó, cái "xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (!) là thế! Mong những nhà văn dân tộc tài năng ghi lại cảnh xã hội trớ trêu độc đáo chưa từng có này.

Bà Ba Sương chỉ lo xây dựng nông trường, không có phe cánh ở tỉnh và trung ương, trong khi nhóm đương quyền ở Cần Thơ đang mê mẩn với quy hoạch Khu kinh tế công nghiệp mũi nhọn béo bở, bà bị chúng thí theo kiểu vắt chanh bỏ vỏ là tất nhiên, vì chuyện cướp đất, cưỡng chiếm đất, buôn đất là chuyện lớn của quốc gia.

Tướng công an Trần Văn Thanh dám cả gan tố cáo bí thư tỉnh uỷ Nguyễn Bá Thanh, uỷ viên trung ương đảng, được uỷ viên bộ chính trị, trưởng ban Kiểm tra trung ương đảng Nguyễn Văn Chi đích thân đỡ đầu và che chở thì dù là tướng công an cũng chỉ có vào tù và bị hạ nhục. Huỳnh Ngọc Sỹ tội cực nặng lẽ ra nằm tù 12 đến 15 năm, nhưng chỉ bị kết án 3 năm, để rồi sẽ được giảm án, ân xá do "cải tạo tốt" (!), vì ông ta là tay chân thân tín của nguyên thứ trưởng giao thông Nguyễn Việt Tiến, mà ông này lại là đệ tử cật của ngài tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Ông Sỹ còn thông gia với ông Lê Thanh Hải là uỷ viên Bộ chính trị, bí thư thành uỷ Sài Gòn...

Một chế độ không có công tâm, không tuân theo luật pháp và hiến pháp, không coi trọng hiền tài, không cho mọi công dân cơ hội thành đạt ngang bằng nhau, chỉ coi trọng phe nhóm mình, chỉ bảo vệ quyền lợi bất chính của phe cánh, không lo che chở những công dân bị oan ức, chỉ lo bao che những kẻ cánh hẩu, bộ hạ thân tín riêng tư... một xã hội như thế chứa đầy tật bệnh hiểm nghèo, không thể yên ổn, hài hoà và phát triển.

Việt Nam thời đổi mới đã và đang đóng góp một danh từ mới cho từ điển quốc tế. "A crony economy", tạm dịch là kinh tế thân hữu, kinh tế phe cánh, kinh tế cánh hẩu, với vô vàn mối quan hệ mờ ám, nhơ bẩn, với vô vàn mưu đồ phá nước hại dân, đang nghiễm nhiên nảy nở, tung hoành khắp nơi, từ trên cao nhất xuống tận cơ sở.

Cám ơn các bạn giáo sư Đại học Harvard - người Mỹ và người Mỹ gốc Việt - đã nhìn thẳng vào sự thật ở Việt Nam, khám phá ra một thực tế, cũng là một nguy cơ, một thảm hoạ của đất nước Việt Nam, cảnh tỉnh bao người vẫn còn nhầm lẫn về sự phát triển "mạnh mẽ"(!), "lành mạnh"(!), "phát triển đi lên"(!), "đúng hướng"(!) của đất nước.

Danh từ mới lạ này là chiếc chìa khoá quý để tìm hiểu sâu sắc, cặn kẽ và chuẩn xác các sự kiện kinh tế, tài chính, chính trị, văn hoá và đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.

Bùi Tín
Paris 9-12-2009

Tâm sự của ngư dân Quảng Ngãi bị Trung Quốc bắt giữ

"Tôi tăng tốc độ cố thoát tàu Trung Quốc đang truy đuổi, nhưng chạy khoảng 11 hải lý đã bị khống chế, chúng tôi cùng với tàu bị họ đưa về đảo Phú Lâm", thuyền trưởng Dương Lúa chưa hết bàng hoàng kể về việc bị tàu Trung Quốc truy đuổi hôm 7/12 trên vùng biển Hoàng Sa.

Trong hai ngày 7 và 8/12, ba tàu đánh cá cùng 43 ngư dân huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, lại bị phía Trung Quốc bắt giữ khi đang hành nghề trên vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Đến tối 11/12, tàu của thuyền trưởng Lê Tân (ký hiệu QNg-96004 TS) cùng 43 ngư dân mới được Trung Quốc thả về đến đảo Lý Sơn. Trung Quốc vẫn còn giữ lại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa, hai chiếc tàu của các ông Dương Lúa và ông Lê Văn Lộc. Tất cả tài sản, thiết bị máy móc, ngư cụ của cả ba tàu đều bị phía Trung Quốc tịch thu, với tổng trị giá gần 2 tỷ đồng.

Sau ba ngày trở về với gia đình, nhưng thuyền trưởng Dương Lúa vẫn chưa hết bàng hoàng. "Người đã bình an trở về, nhưng tài sản tích cóp cả đời bị mất sạch, giờ biết lấy gì nuôi sống gia đình trong thời gian tới", ông Lúa nghẹn ngào nói với VnExpress.net.

Ông Lúa bảo rằng, năm ngày đêm bị phía Trung Quốc bắt giữ là khoảng thời gian thật khủng khiếp đối với 43 ngư dân đảo Lý Sơn.

Viên thuyền trưởng kể, sáng 7/12, khi tàu của ông đang neo đậu trên vùng biển Hoàng Sa trong khi đánh bắt cá, thì bất ngờ một tàu sắt màu trắng của Trung Quốc xuất hiện truy đuổi quyết liệt. "Chúng tôi tăng hết tốc độ cố chạy thoát nhưng chỉ chạy được hơn 11 hải lý đã bị đuổi kịp", ông Lúa nói.

Tâm sự của ngư dân Quảng Ngãi bị Trung Quốc bắt giữ
Ngư dân Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Ảnh: Chí Trung

Khi áp sát tàu ngư dân Việt Nam, ba người chịu trách nhiệm cao nhất của tàu Việt Nam bị phía Trung Quốc đưa qua tàu của họ. Những thuyền viên còn lại bị khống chế đưa lên trên mũi tàu. Sau đó, phía Trung Quốc đưa tàu và các ngư dân Việt Nam về đảo Phú Lâm giam giữ.

Thuyền trưởng Lê Văn Lộc góp lời, trưa 8/12, khi các ngư dân trên tàu của ông vừa mới vung lưới đánh bắt (sau 3 ngày neo đậu tránh gió), bất ngờ thấy tàu Trung Quốc đang vây bắt tàu của ông Lê Tân cũng hành nghề, cách tàu ông khoảng 10 hải lý. Hoảng quá, ông Lộc cho tàu bỏ chạy. "Nhưng chỉ chạy được khoảng nửa giờ thì chúng tôi đã bị tàu Trung Quốc áp sát và khống chế, đưa về đảo Phú Lâm, lúc đó khoảng 18h30", ông Lộc nhớ lại..

Các thuyền trưởng cho biết, khi đến đảo Phú Lâm, tất cả ngư dân đều bị người phía Trung Quốc lấy mũ vải đen trùm kín lên đầu. "Vừa đói, vừa mệt, tinh thần chúng tôi càng thêm hoảng loạn. Lúc đó chỉ sợ không còn được về gặp gia đình. Sau đó, phía Trung Quốc dẫn anh em đến nhốt chung vào nhà kho ", ông Lộc nói.

Tiếp lời, ông Dương Lúa cho biết, trong những ngày bị nhốt, các thuyền trưởng luôn bị phía Trung Quốc gọi lên ký vào các biên bản. Sau đó, có một người thông dịch viên đến đưa cho mỗi thuyền trưởng một bản cam kết viết bằng tiếng Việt bắt ký vào. “Với tình cảnh như thế, chúng tôi buộc phải ký vào biên bản chứ chẳng còn cách nào khác”, ông Dương Lúa cho biết.

"Trước khi phóng thích tàu của ông Tân đưa chúng tôi về lại Lý Sơn, người Trung Quốc đưa những bao được cho là thuốc nổ từ trong kho của họ xuống ba tàu. Sau đó bắt mỗi ngư dân chúng tôi phải ôm một bao trên tay để họ quay phim, chụp ảnh nhằm cáo buộc chúng tôi đã sử dụng chất nổ trái phép", ông Lộc bức xúc nói.

Trở về được đến nhà, các ngư dân Quảng Ngãi thở phào nhẹ nhõm, song không khỏi lo toan về ngày mai, khi phải mưu sinh nuôi cả gia đình, trong khi toàn bộ tàu thuyền, máy móc, ngư cụ đều đã bị Trung Quốc giữ ở đảo Phú Lâm.

Thuyền trưởng Lúa bộc bạch: "Về đến đất liền, đoàn tụ với gia đình lòng tôi mới thực sự nhẹ nhõm sau những ngày bị giam giữ. Nhưng nghĩ tới ngày mai, gia đình không biết sẽ sống ra sao khi trong nhà chẳng còn một đồng vốn nào".

Trong thời gian chờ đợi phía Trung Quốc trả tàu, ông Lúa dự định xin đi theo phụ thuê cho các tàu đánh bắt cá khác để lo miếng cơm tạm thời cho gia đình. Còn thuyền trưởng Lộc chép miệng: "Giờ tôi chỉ biết ngồi nhà chờ đợi cơ quan chức năng can thiệp với Trung Quốc, mong lấy được tàu về càng sớm càng tốt để kiếm cách sinh nhai cho gia đình".

Trao đổi với VnExpress.net chiều 14/12, ông Phạm Đình Khối, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi cho biết, UBND tỉnh đang chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục củng cố hồ sơ, làm rõ các chứng cứ, nội dung tường trình của 43 ngư dân để xem xét họ có vi phạm gì không. Nếu họ không vi phạm và phía Trung Quốc bắt giữ tàu không đúng, thì tỉnh sẽ kiến nghị Bộ Ngoại giao có giải pháp can thiệp phía Trung Quốc thả ngay vô điều kiện hai tàu cá của ngư dân.

"Chiếc tàu là tài sản cả đời của ngư dân. Nhà nước không thể để tài sản và chuyện hành nghề mưu sinh của ngư dân cứ bị đe dọa như vậy được", ông Bí thư tỉnh Quảng Ngãi nhấn mạnh.

Trong năm nay, nhiều tàu cá của ngư dân Việt Nam cũng bị Trung Quốc bắt giữ khi đang hành nghề đánh bắt hải sản trên vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.

Lê Thanh




Saturday, November 28, 2009

Hướng tới những giải pháp cho biển Đông - 2/2

Tạo dựng lòng tin

Tranh chấp là câu chuyện dài, như ông Hoàng Việt, giảng viên khoa Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM, nhìn nhận: “Các vấn đề tranh chấp rất phức tạp và việc giải quyết là rất khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian. Thế nên hội thảo này tập trung bàn về hợp tác trong phạm vi có thể”.

Với mục tiêu hướng tới hợp tác, giới học giả cho rằng các bên cần gác lại tranh chấp để đi vào hợp tác. Nhưng vấn đề mấu chốt là các bên làm sao nhất trí được một số điểm chính như khu vực và lĩnh vực hợp tác, chủ thể và cơ chế hợp tác thì vẫn chưa có lời giải cụ thể.

Các học giả cũng cho rằng trước khi có thể đàm phán để giải quyết tranh chấp hoặc hợp tác trong khu vực, cần phải xây dựng một số điều kiện ban đầu thuận lợi cho hợp tác, bao gồm: đồng thuận bên trong từng nước để từ đó có chính sách ổn định và nhất quán; xây dựng mối quan hệ song phương và đa phương có lợi cho hợp tác trên biển Đông; ASEAN vững mạnh, nắm vai trò chủ đạo trong các vấn đề hợp tác quốc tế và giải quyết xung đột khu vực.

Về vai trò của Việt Nam, ông Nazery Khalid, nghiên cứu viên cao cấp của Trung tâm Công nghiệp và Kinh tế biển Malaysia, nói: “Năm tới, với tư cách Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cần có những hành động cụ thể để thúc đẩy đối thoại giữa các bên tranh chấp, giữa ASEAN và Trung Quốc. Cần phải ngồi lại với nhau và có ý chí chính trị thực sự thì mới có thể giảm tranh chấp và hướng tới hợp tác được. Tranh chấp ở biển Đông là vấn đề lâu dài, nhưng chúng ta cần phải hành động hướng về phía trước, chứ không phải níu chân nhau, giằng co nhau bằng các yêu sách chồng chéo”. Ông Khalid cũng cho rằng yêu sách đường Lưỡi bò của Trung Quốc dựa trên những căn cứ không thỏa đáng và điều đó đã tạo ra tranh cãi.

Giáo sư Ian Townsend-Gault, khoa Luật, Đại học British Columbia, Canada, nhấn mạnh: “Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng tranh chấp ở biển Đông có đặc trưng riêng về nhiều mặt, nhưng trong nhiều mặt khác thì không phải thế. Các bên cần tham khảo chuyện giải quyết tranh chấp ở biển Baltic, biển Đen... để áp dụng cho biển Đông”.

Một số đại biểu còn nhấn mạnh yêu cầu các nước, kể cả trong và ngoài khu vực, phải tăng tính minh bạch về chiến lược và chi phí quân sự để giúp xây dựng lòng tin. Trước mắt, Bộ Quy tắc ứng xử cho biển Đông cần phải được tiếp tục xây dựng và Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) với các bước về xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và giải quyết xung đột cần được áp dụng vào khu vực biển Đông.

Trong phát biểu bế mạc, các đại biểu Việt Nam và nước ngoài nhấn mạnh rằng hội nghị đã giúp hình thành một khuôn khổ đối thoại của học giới. Các tham luận, ý kiến, đề xuất có thể được giới hoạch định chính sách các nước tham khảo nhằm giải quyết vấn đề biển Đông trên tinh thần hòa bình và hợp tác.

"Năm tới, với tư cách Chủ tịch ASEAN, Việt Nam cần có những hành động cụ thể để thúc đẩy đối thoại giữa các bên tranh chấp, giữa ASEAN và Trung Quốc... Tranh chấp ở biển Đông là vấn đề lâu dài, nhưng chúng ta cần phải hành động hướng về phía trước, chứ không phải níu chân nhau, giằng co nhau bằng các yêu sách chồng chéo"

Nazery Khalid, Trung tâm Công nghiệp và Kinh tế biển Malaysia

Hướng tới những giải pháp cho biển Đông - 1/2

* Yêu cầu Trung Quốc không tiếp tục làm phức tạp thêm tình hình

Dù tranh chấp ở biển Đông là vấn đề lâu dài và phức tạp, các học giả tham gia hội thảo quốc tế tại Hà Nội đã gợi ý một số giải pháp hướng tới hợp tác, phát triển.

Nguyên nhân gia tăng căng thẳng

Tại hội thảo khoa học quốc tế “Biển Đông: Tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực” diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày qua, nhiều học giả nổi tiếng thế giới trong lĩnh vực hàng hải và khu vực biển Đông, Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương như Mark J.Valencia, Ramses Amer, Carlyle A.Thayer..., đã đi thẳng vào phân tích nguyên nhân dẫn tới tình trạng gia tăng căng thẳng trong thời gian gần đây ở biển Đông.

Sức mạnh của nền kinh tế, chương trình hiện đại hóa quân đội, nhu cầu năng lượng lớn của Trung Quốc và cạnh tranh chiến lược giữa nước này với các nước lớn khác được nhìn nhận như là một nguyên nhân làm tăng mối lo ngại của các nước liên quan đối với yêu sách của Trung Quốc trên biển Đông. Gần đây, việc các nước trong vùng nộp báo cáo về thềm lục địa kéo dài theo yêu cầu của Liên Hiệp Quốc đã trở thành dịp để các nước khẳng định chủ quyền, làm dấy lên làn sóng khẳng định - phản đối giữa các nước có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông. Điển hình nhất là việc Trung Quốc chính thức đưa ra đường Lưỡi bò để phản đối các nước khác nộp báo cáo về thềm lục địa kéo dài. Một số chuyên gia cho rằng yêu sách đường Lưỡi bò của Trung Quốc là không rõ ràng và các căn cứ mơ hồ, khiến tình hình thêm căng thẳng.

Việc nhiều nước tăng cường hoạt động khai thác tài nguyên trong khu vực, như thăm dò và khai thác dầu khí, đánh cá... đã dẫn đến tình trạng tranh đua. Tình hình phức tạp hơn do trong lĩnh vực khai thác dầu khí có sự tham gia của các công ty đa quốc gia. Số lượng ngư dân bị bắt giữ cũng tăng lên. Đặc biệt một số nước có hành động ngược đãi ngư dân.

Một số học giả nhận xét: ngoài việc đưa ra Tuyên bố ASEAN năm 1992 về biển Đông, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC, năm 2002), ASEAN chưa coi vấn đề biển Đông là ưu tiên, chưa thực sự trở thành cơ chế khu vực hữu hiệu trong việc giảm căng thẳng liên quan tới tranh chấp biển Đông. Nhiều ý kiến nhận định rằng khó có một giải pháp cho tranh chấp biển Đông trong thời gian ngắn. Thậm chí có học giả còn cảnh báo nguy cơ xảy ra tình thế “bế tắc gây hại”, theo đó các nước vừa bế tắc trong việc tìm kiếm giải pháp vừa đẩy mạnh các biện pháp khẳng định chủ quyền làm tình hình trở nên phức tạp.

Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ: Trung Quốc cần trả lời dư luận về đường Lưỡi bò

* Vấn đề đường chữ U đứt đoạn mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền được các học giả nhìn nhận như thế nào, thưa ông? Các nhà nghiên cứu của Trung Quốc đã nói gì về vấn đề này tại hội thảo?

- Bản thân trong giới nghiên cứu của Trung Quốc cũng chưa có sự thống nhất về vấn đề này. Hôm nay, trong trao đổi, phía học giả Trung Quốc cũng chỉ nhắc lại đường biên giới trong vùng nước truyền thống, lịch sử, chủ quyền của Trung Quốc từ lâu. Cũng có nhà nghiên cứu Trung Quốc nói rằng chính phủ của họ chưa bao giờ có ý kiến chính thức về đường chữ U đứt đoạn, đó không phải là đường biên giới trên biển mà Trung Quốc chỉ đưa ra thể hiện chủ quyền của mình thôi. Trên thực tế trong những tuyên bố của mình Trung Quốc cũng đầy mâu thuẫn. Đó là những vấn đề các học giả phải trao đổi thêm và phía Trung Quốc cần phải trả lời trước dư luận.

* Việc giải quyết về chủ quyền chắc chắn còn nhiều khó khăn do quan điểm của các bên về vấn đề này đều khá cứng rắn. Qua hội thảo này, theo ông đâu là tính khả thi của việc hợp tác khai thác tại các vùng tranh chấp?

- Nguyên tắc của vấn đề khai thác hợp tác chung ở các vùng chồng lấn tranh chấp đúng là một giải pháp tạm thời mà trong Công ước Luật Biển 1982 đã nêu lên. Hai bên có tranh chấp trên nguyên tắc thỏa thuận đi đến một giải pháp công bằng. Trong lúc còn đang đàm phán hai bên có thể thỏa thuận tạm thời cùng khai thác vùng chồng lấn...

Còn quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa không phải là vấn đề các vùng biển mà là chủ quyền lãnh thổ. Phải xác định hiệu lực của các đảo, quần đảo trong việc xác định phạm vi biển của nó ra đến đâu. Từ đó mới tạo ra các vùng chồng lấn với vùng biển của các nước ven biển. Từ đó mới có vùng chồng lấn mà khi hai bên còn đang tranh chấp chưa đi đến quyết định cuối cùng thì có thể hợp tác khai thác ở phạm vi đó. Không thể nói chung chung là hợp tác khai thác. Tranh chấp ở đâu, ở chỗ nào chứ không thể tranh chấp sâu vào các vùng vốn của Việt Nam, Malaysia, Philippines (như cách Trung Quốc đang làm). Đó là điều không thể chấp nhận được vì cơ sở của những tranh chấp này không phải xuất phát từ Công ước Luật Biển mà từ những tài liệu không có cơ sở pháp lý. Bản thân Việt Nam cũng đã áp dụng giải pháp tạm thời đó cùng với Malaysia trong việc ký kết thỏa thuận khai thác chung. Chúng ta rất thiện chí và cầu thị trong việc này để xử lý theo đúng Công ước Luật Biển.

Nhưng để đạt đến hiệu quả trong thực tế phải giải quyết ngay yêu sách tạo vùng chồng lấn xuất phát từ cơ sở nào. Chứ mỗi bên một cơ sở thì chắc chắn sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề, mặc dù các bên ai cũng đều nói rằng sẽ thiện chí giải quyết.

Hương Giang (ghi)

Yêu cầu Trung Quốc không tiếp tục làm phức tạp thêm tình hình

Yêu cầu Trung Quốc không tiếp tục làm phức tạp thêm tình hình

Ngày 27.11, trả lời câu hỏi của phóng viên về việc Trung Quốc cử hai tàu ngư chính đến quần đảo Hoàng Sa và cử tàu y tế đến quần đảo Trường Sa của VN, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga nói: "VN khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc cử tàu đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN đối với hai quần đảo này".

Theo bà Nguyễn Phương Nga, ngay sau khi được tin trên, ngày 27.11, Bộ Ngoại giao VN đã gặp Đại sứ quán Trung Quốc tại VN để phản đối và yêu cầu phía Trung Quốc chấm dứt các hoạt động này, không tiếp tục có các hành động làm phức tạp thêm tình hình tại biển Đông, góp phần duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác tại khu vực.

Hương Giang

Vietnam - Bế mạc hội thảo quốc tế về biển Đông:

Có thể giải quyết bằng pháp luật quốc tế

TT - Phiên cuối cùng của hội thảo về biển Đông diễn ra sáng 27-11 với chủ đề “Biển Đông: tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển ở khu vực”.

Các học giả cho rằng tranh chấp phức tạp trên biển Đông không có nghĩa là các bên không thể giải quyết bằng pháp luật quốc tế, trong đó các bên có thể tiến hành đàm phán song phương và đa phương. Điều quan trọng là hai tiến trình này cần có tính tương hỗ với nhau.

Một hướng giải quyết khác được hội thảo bàn đến là hợp tác cùng khai thác. Theo cách này, các bên có thể gác tranh chấp để đi vào hợp tác. Điều kiện để thực hiện điều này, theo các học giả, là các bên phải nhất trí được về khu vực địa lý, lĩnh vực hợp tác, chủ thể và cơ chế hợp tác. Học giả từ Indonesia cho rằng điểm mấu chốt và khó khăn nhất cho cách giải quyết này là cần ý chí chính trị của các bên liên quan.

Theo các học giả, để tiến hành đàm phán giải quyết tranh chấp, các bên liên quan cần xây dựng một số điều kiện ban đầu. Đó là sự đồng thuận trong từng nước để đảm bảo chính sách ổn định và nhất quán, quan hệ tốt và ổn định giữa các bên trên các mặt để tạo không khí và mối quan hệ hợp tác nói chung, ở biển Đông nói riêng.

Vai trò của ASEAN cũng được nhấn mạnh trong vấn đề hợp tác quốc tế và giải quyết xung đột trong khu vực, và quá trình giải quyết tranh chấp trên biển Đông phải được gắn với quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh.

Việc giải quyết tranh chấp biển Đông, theo các học giả, phải được gắn với vấn đề an ninh, hòa bình, ổn định và thịnh vượng khu vực cũng như sự phát triển hòa bình của Trung Quốc. Một số đại biểu còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các bên công khai, minh bạch về chiến lược và chi phí quân sự nhằm xây dựng lòng tin. Trước mắt, các đại biểu cho rằng cần tiếp tục việc xây dựng bộ quy tắc ứng xử cho biển Đông.

Theo ban tổ chức hội thảo (Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia VN), những đóng góp từ các công trình nghiên cứu của các học giả, nhà nghiên cứu biển Đông tại hội thảo có giá trị học thuật rất lớn và thông tin từ hội thảo có giá trị cao đối với giới hoạch định chính sách cũng như nhận thức xã hội nói chung.

HƯƠNG GIANG

Thursday, November 26, 2009

Sở Cảnh Sát Westminster hướng dẫn người dân ngăn ngừa ‘cảnh sát hung bạo’

Đề Phòng cảnh sát Kỳ Thị & bạo Hành...( đối với người Việt ).
Hình trên: Thám tử Michael Nguyễn của Sở Cảnh Sát Westminster biểu diễn một cảnh chận xe, và giải thích cách ứng xử của nhân viên công lực, cũng như những gì người bị chận xe cần làm, và những điểu gì phải tránh. (Hình: Hà Giang/Người Việt)

Hình dưới: Nhân viên Sở Cảnh Sát Westminster biểu diễn cảnh còng tay một người dân trong

‘Dân thiểu số là nạn nhân nhiều hơn người bản xứ’



“Cảnh sát hung bạo (police brutality) là một thực tại, và thường nhắm vào dân thiểu số hơn là người bản xứ.”

Ðó là câu trả lời rất bộc trực của ông Andrew Hall, cảnh sát trưởng thành phố Westminster, nơi có Little Saigon, khi được phóng viên Người Việt hỏi rằng, “police brutality” có phải là một thực tại không, và Sở Cảnh Sát Westminster có những chương trình gì để ngăn ngừa vấn nạn này.

* Ngăn ngừa “cảnh sát hung bạo”

Câu hỏi trên đưa ra trong khung cảnh một buổi hội thảo giữa Sở Cảnh Sát Westminster và cộng đồng người Việt tại Little Saigon, được Westminster City Council tổ chức vào lúc 2 giờ chiều Thứ Tư, 25 Tháng Mười Một, 2009 tại phòng sinh hoạt nhật báo Viễn Ðông.

Mục đích, theo Cảnh Sát Trưởng Andrew Hall, nhằm giảm thiểu tối đa những trường hợp “cảnh sát hung bạo” (police brutality).. Sở Cảnh Sát Westminster cũng đề cập đến việc này với những cảnh sát viên mới từ những ngày đầu tiên họ nhận trách nhiệm.

“Trong giai đoạn tuyển người chúng tôi cùng các ứng viên làm những trắc nghiệm khác để loại trừ những người có đầu óc kỳ thị.”

Ông nói thêm.

Và dĩ nhiên một trong những nỗ lực để ngăn ngừa vấn nạn “cảnh cát hung bạo” (police brutality) “chính là buổi hội thảo rất thiết thực và cần thiết này.”

Trong buổi thảo luận kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ, Sở Cảnh Sát Westminster đã hướng dẫn cho cư dân trong vùng hiểu “những điều cần làm và những điều phải tránh” khi bị cảnh sát chặn xe, hay khi cảnh sát đến nhà để đáp ứng những cú phôn gọi 911.

Mục đính chính của buổi thảo luận là để tránh những việc đáng tiếc đã xảy ra ở San Jose tiêu biểu là trường hợp du sinh Phương Hồ và một thanh niên bị bệnh tâm thần Daniel Phạm.

Thuyết trình viên chính của buổi thảo luận, thám tử (detective) Michael Nguyễn, hiện đang phụ trách những vụ bạo hành gia đình (domestic violence) đã giải thích bằng lời và cả sự biểu diễn (demonstration) cho cử tọa biết sự suy nghĩ và ứng phó của cảnh sát trong ba trường hợp khác nhau: Khi chặn xe, khi đến nhà người dân trong trường hợp bạo hành gia đình, và trong trường hợp nhà có người bị bệnh tâm thần.

Theo thám tử Michael Nguyễn, điều quan trọng nhất mọi người cần nhớ là khi cảnh sát chặn xe lại, họ “không biết người ngồi trong xe là ai, và họ có ý định gì.”

Tài xế có thể là một dân lành, một tội phạm, một người bệnh tâm thần, hay đơn thuần chỉ là một người không nắm rõ luật giao thông.

“Nhưng chúng tôi chỉ có thể suy đoán về người đó hay ý định của người qua hành động của họ.”

Thám tử Michael Nguyễn nói.

* Người dân phải làm gì?

Vậy khi bị cảnh sát chớp đèn, chặn xe, người dân phải làm gì?

1. Lái xe qua bên lề phải, tìm chỗ an toàn và đậu lại.

2. Ngồi yên trong xe và không ra khỏi xe vì bất cứ lý do gì, trừ trường hợp được cảnh sát yêu cầu.

3. Ðể hai tay lên vô lăng cho cảnh sát thấy là trong tay không có vũ khí, hay không dự định lấy vũ khí.

4. Ðưa giấy tờ cho cảnh sát xem khi họ hỏi.

Trong trường hợp giấy tờ để trong cốp xe thì phải cho cảnh sát biết, và chờ họ cho phép thì mới được xuống xe lấy giấy tờ.

Trong phần nói về ứng xử của cảnh sát khi đến nhà người dân để đáp ứng những cú gọi 911, thám tử Michael Nguyễn cho biết rằng đến nhà dân trong những trường hợp bạo hành gia đình nguy hiểm nhất, vì mọi người đang cơn nóng giận, và rất nhiều cảnh sát đã bị tử nạn khi thi hành công vụ trong những trường hợp này.

Thường thì sẽ có ít nhất là 2 cảnh sát viên đến nhà trong trường hợp bị gọi phôn vì (nghi ngờ) có bạo hành. Việc đầu tiên cảnh sát sẽ làm là đảm bảo tất cả mọi người trong nhà được an toàn. Họ sẽ tìm cách tách hai người đang ẩu đã hay xô xát ra và nói chuyện riêng với mỗi người.

Khi cảnh sát đến nhà, mọi người phải tuyệt đối ngồi yên theo lời yêu cầu của cảnh sát. Người dân phải tuyệt đối tuân thủ những yêu cầu của cảnh sát dù nghĩ rằng họ đang hành động trái phép, vì họ có thể nộp đơn khiếu nại sau.

Trong trường hợp tình trạng ẩu đả vẫn còn xảy ra khi có mặt cảnh sát, họ sẽ còng tay và khống chế người đang bạo hành ngay. Họ làm thế để bảo vệ người dân.

Khi cần phải gọi cảnh sát vì không cảm thấy an toàn do hành động của người bị bệnh tâm thần, người nhà cần phải nói ngay điều này cho người trực phôn 911 biết, nếu không cảnh sát sẽ ứng xử bình thường và những việc đáng tiếc có thể xảy ra.

Các thuyết trình viên nhắc nhiều đến các trường hợp du sinh Phương Hồ, anh Daniel Phạm tại San Jose và ông Trần Kim Mỏng tại Garden Grove, và rút tỉa kinh nghiệm của mỗi trường hợp.

Sự thành công của cuộc thảo luận có thể được đo lường bằng sự lắng nghe chăm chú của gần 30 người dân tham dự, nhiều câu hỏi được đặt ra và đều được trả lời thỏa đáng.

Nói với phóng viên Người Việt sau buổi thảo luận, bà Hòa Vũ, một dân cư trong vùng nói buổi “nói chuyện này bổ ích lắm”, và dự định sẽ về “kể lại cho người thân và bạn bè nghe.”

Cô Yến Nguyễn, một dân cư khác trong vùng cho rằng buổi hội thảo là một cử chỉ đẹp của Hội Ðồng thành phố Westminster, “biểu hiện quan tâm của các vị dân cử đến đời sống của cộng đồng.”

Thursday, November 12, 2009

Pháp Luân Công



Sau vài ngày im lặng, Bắc Hàn lên tiếng đe dọa Nam Hàn sẽ phải “trả giá nặng nề” cho vụ chạm súng giữa hải quân hai bên


Trần Vũ theo AP, Nov 12, 2009


Cali Today News - Hai ngày sau khi có vụ chạm súng giữa tàu chiến hai bên, thứ năm 12/11, Nam Hàn loan báo là Bắc Hàn đã de dọa là “Nam Hàn sẽ phải trả giá nặng nề cho vụ này”.

Tờ báo của Bắc Hàn Rodong Sinmun đã đăng tải lời đe dọa này, trong lúc phái đoàn hai bên gặp nhau bàn thảo về cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa các lãnh tụ hai miền đã thất bại.

Trong bài xã luận, báo này viết: “Những kẻ chủ chiến thích đùa với lửa nay chắc chắn sẽ trả một giá rất đắt”. An ninh trong vùng địa lý vốn chiếm tới 1/6 tổng sản lượng kinh tế toàn cầu đã bị quấy nhiễu do lần đầu tiên từ 7 năm qua, tàu chiến Nam-Bắc Hàn đã nã súng vào nhau.

Báo Rodong Sinmun tố cáo “vụ va chạm trên biển Hoàng Hải không phải là tai nạn, mà một một hành động gây hấn có tính toán trước do giới quân phiệt Nam Hàn muốn làm căng thẳng thêm bầu không khí trên bán đảo Triều Tiên”.

Nam Hàn thì tố cáo tàu của Bắc Hàn đã xâm nhập trái phép vào lãnh hải của họ. Địa điểm xảy ra vụ chạm súng cũng gần với hai lần trước hai bên đã đụng độ nhau trong vòng 10 năm qua.

Nữ Ngoại Trưởng Clinton thì cho là vụ nổ súng này không ảnh hưởng gì đến việc Hoa Kỳ gửi một đặc sứ đến Bình Nhưỡng nhằm thúc đẩy các cuộc thảo luận đa phương về bán đảo Triều Tiên.

Trần Vũ theo AP

MỌI NGƯỜI CẦN ĐỌC VÀ CHUYỂN TIẾP CHO NGƯỜI KHÁC.

Juval Aviv là một nhân viên Do Thái mà truyện phim “Munich” đã phỏng theo. Hồi trước ông là cận vệ của bà Golda Meir’s,bà đã cho lệnh ông truy nả và đem xét xử những kẻ khủng bố Palestin đã bắt các lực sỉ Do Thái làm con tin và giết họ trong Thế Vận Hội Munich.

Trong cuộc thuyết trình tại New York cách đây vài tuần, ông đã cho biết nhiều tin tức mà ông nghĩ mọi người Mỹ cần nên biết. Nhưng chính quyền ta (Obama) chưa chia sẻ với chúng ta.

Trước đây ông đã tiên đoán đường tầu điện ngầm ở Luân Đôn sẽ bị nổ bom,trong show cũa Bill O’reilly đài Fox ,công bố rằng khũng bố sẽ xảy ra trong vòng một tuần.Khi đó,O’reilly cười chế nhạo và châm biếm ông và rằng muốn ông có mặt trên show này một lần nữa vào tuấn tới.Nhưng thật không may,trong tuần lể đó khủng bố tấn công đã xảy ra.

Juval Aviv cung cấp tin tức tình báo ( từ những tin tức lượm được từ Do Thái và Trung Đông) cho chính quyền Bush biết về khủng bố 9/11 vào khoảng một tháng trước khi xảy ra.Bản báo cáo đặc biệt rằng chúng có thể dùng máy bay thay bom và nhắm vào các nhà chọc trời và các tượng đài.Sau đó Quốc hội đã mướn ông làm nhân viên cố vấn an ninh.

Bây giờ ông tiên đoán tương lai. Ông cho biết cuộc tấn công khủng bố tới sẽ xảy ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ trong vài tháng tới.

Hãy quên đi chuyện cướp những máy bay,bởi vì, ông nói,những tên khủng bố sẽ không bao giờ cướp máy bay nữa,vì chúng biết rằng người trên phi cơ sẽ không khoanh tay và sẽ chống cự.Aviv tin rằng an ninh phi tri°ờng hiện nay lỏng lẻo,chúng ta đã chỉ phản ứng thay vì đóng góp để kiện toàn hệ thống chông khủng bố hửu hiệu.

Ví dụ :

1-Kỷ thuật lỗi thời.Chúng ta tìm kim loại,nhưng hiện nay bom làm bằng nhựa.

2- ông nói về một tên ngu xuẩn đốt cháy dày của hắn,vì vậy mọi người phải cổi dày.Một số kẻ ngu khác cố đem chất nổ lỏng lên phi cơ.Bây giờ chúng ta không được đem theo nước uống. Ông nói ông đang đợi một tên đổ chất nổ vào quần lót,thì lập tức an ninh sẽ yêu cầu mọi người cởi hết quần áo.

Những hành động đó chỉ là phản ứng thôi.

3-Chúng ta chỉ lưu tâm an ninh khi mọi người đi vào cổng.Aviv nói rằng trong tương lai nếu một tên khủng bố nhằm vào phi trường,chúng sẽ lợi dụng lúc đông người ở chổ mọi người đang check in.Thật dể dàng cho một người xách 2 hành lý chất nổ, đi thẳng vào hàng chờ check-in và nói với người đứng gần làm ơn để ý dùm hành lý của chúng vài phút để đi tiểu hay đi mua nước uống, rồi làm nổ tung hành lý trước khi nhân viên an ninh đến. Ơ Do Thái những hành lý được kiểm soát trước khi vào phi trường.

Aviv nói rằng cuộc khủng bố sắp tới ở Hoa Kỳ quá rõ ràng và sẽ đánh bom tự sát và đánh bom không tự sát ở những nơi có nhiều người tụ tập.(ví như Disneyland,Casino Las vagas,thành phố New York,San Francisco,Chicago v.v….)cùng các shopping mall,tầu điện ngầm trong giờ cao điểm,ga xe lửa v.v… cũng như các vùng thôn quê (Wyoming,Montana…)

Tấn công sẽ đồng loạt phá hủy khắp nơi(quân khủng bố muốn có tác dụng lớn), liên quan ít nhất 5-8 thành phố bao gồm luôn cả thôn quê.

Aviv nói những tên khủng bố sẽ không cần đánh bom tự sát trong các thành phố lớn,bởi vì những nơi như MGM GRAND ở Las Vagas,chúng chỉ đơn giản đậu xe bằng Valet với xe chở đầy bom và sau đó biến mất dạng.

Aviv nói những tình huống trên đều được biết tường tận trong ngành tình báo,nhưng chính quyên không muốn báo động cho dân chúng biết sự thật.Thế giới sẽ trở thành “một nơi xa lạ”nhanh chóng và những vấn đề như ‘điạ cầu hâm nóng’ và sửa đổi đường lối trở thành vô nghĩa.

Trên một ghi chú đặc biệt, ông nói người Mỹ không phải lưu tâm đến nguyên tử.Aviv nói những tên khủng bố muốn tiêu diệt Mỹ sẽ không dùng những vũ khí tinh vi.Chúng thích dùng bom tự sát.Rẻ tiền,dễ dàng,hiệu quả và chúng có nhiều bật tận những thanh niên tình nguyện tự sát để được về với nơi mong ước của họ.

Ông cũng nói trong những khủng bố tới sẽ không đến từ các nước ngoài.Nhưng sẽ là những người lớn lên tại Mỹ đã từng đi học và được giáo dục tại các Trường trung Đại học ở đây. Ông nói hãy để ý những “sinh viên” hay đi qua về Trung Đông,những người khủng bố trẻ này rất nguy hiểm bởi vì chúng biết nói tiếng Anh và hiểu biết thói quen của người Mỹ.Nhưng chúng ta lại không biết không hiểu gì về chúng nó.

Aviv nói rằng người Mỹ không chuẩn bị và không được huấn luyện về những đe dọa khủng bố mà chúng ta phải đương đầu không tránh được.Nước Mỹ vẫn còn có nhiều người nói tiếng Arabic va Farsi trong hệ thống tình báo và Aviv nói chúng ta phải khẩn thiết thay đổi thực trạng ngay.

Vì vậy,làm sao nước Mỹ tự bảo vệ được ? Trong ngành tình báo,Aviv khuyên Hoa Kỳ nên ngưng ngay sự trông cậy vào vệ tinh và các kỷ thuật tình báo.Thay vào đó chúng ta cáh§n theo phương cách của Do Thái,Ireland và nước Anh những thí dụ điển hình về tình báo nhân dân.Cả hai từ sự thanh lọc rỏ ràng cũng như tin cậy vào những người dân am hiểu .Chúng ta cần phải chú tâm và tự giáo dục mình.tuy nhiên chính quyền tiếp tục xem chúng ta như con nít.Chính quyền nghĩ rằng chúng ta không có thể giải quyết sự thật và nghĩ rằng chúng ta sẽ kinh hải nếu chúng ta hiểu được sự thật của sự khủng bố.Aviv nói đây là một lỗi lầm chết người.

Aviv vừa mới tạo ra một thí nghiệm an ninh mới và đem thử nghiệm cho Quốc hội xem,bằng cách đặt một va li trống không trong 5 địa điểm qua lại đông đúc trong 5 thành phố lớn.Kết quả ? Không lấy một người gọi 911 hay tìm một người Cảnh sát để tìm sự thật,trong thành phố Chicago,một người lại lấy cắp vali.

Làm sự so sánh,Avis nói rằng dân Do Thái được huấn luyện rất kỷ khi thấy một bịch hay gói đồ không có chủ lập tức tri hô lên cho mọi người biết “Một bao không có chủ”, dân chúng lập tức chạy tản ra khỏi chổ đó.Nhưng ở Mỹ thì trái lại,vì chưa thấm đòn bởi khủng bố nhiều nên chính quyền chưa hoàn toàn hiểu rỏ cần phải dạy dổ dân chúng hay chính quyền phải hiểu rằng thường dân sẽ là những người tuyến đầu tốt nhất để chống trả lại sự khủng bố không thể tránh được.

Aviv cũng quan tâm về số lớn trẻ con ở đây đang học ở các trường mẩu giáo hay tiến mẩu giáo sau 9/11 đã lạc lỏng vì không có cha mẹ có thể đến dem con cái về nhà,và trường học chúng ta đã không có kế hoạch tại chổ để săn sóc các học sinh cho đến khi cha mẹ có thể đến trường đón chúng. Ơ New York dẵ xảy ra một vài trường hợp).

Ông nhấn mạnh phải có kế hoạch là điều cần thiết,có sự thông cảm với gia đình, để phản ứng trong trường hợp bị khủng bố. Ông khuyên cha mẹ hảy tiệp xúc với con em ở trường và yêu cầu ngược lại từ các trường.Phát triển kế hoạch hành động như ở Do Thái đang làm.

Gia đình bạn sẽ phải làm gì khi bạn không thể gọi nhau bằng phone ?Bạn tụ tập ở đâu trong trương hợp khẩn cấp?

Ông nói chúng ta nên có tất cả kế hoach thật đơn giản cho các con em chúng ta nhớ và thi hành.

Aviv nói rằng chính quyền Mỹ có kế hoạch bắt buột,trong trường hợp khủng bố tấn công khác,sẽ lập tức cắt hết mọi khả năng trong việc dùng cell phone,blackberries v.v…,đây là phương tiện liên lạc thích hợp của quân khủng bố và bọn chúng thường dùng đế nổ bom.

Làm thế nào bạn liên lạc được với người thân khi xảy ra ?

Bạn cần có một kế hoạch.

Nếu bạn tin tuởng những gì bạn vừa đọc,vậy bạn nên gởi email đến mọi người làm cha mẹ,thủ hộ, ông bà,cô chú và bất cứ ai.Sẽ không có chuyện gì xảy tới cho bạn nếu bạn chọn lựa không chuyển đi,nhưng khi biến cố xảy tới,email này sẽ ám ảnh bạn.”Tôi nên gởi email này đến…” nhưng tôi đã không tin và đã xoá bỏ nó .



Hoan Khai Nguyen
Mortgage Bankers of Texas

Tại Mỹ, dân biểu Liên Bang gốc Việt Joseph Cao Quang Ánh thêm nổi tiếng với lá phiếu tán đồng dự án cải tổ bảo hiểm y tế

Bảo Thạch,RFI

Bài đăng ngày 12/11/2009 Cập nhật lần cuối ngày 12/11/2009 17:33 TU

Dân biểu Cao Quang Ánh Nguồn : josephcao.house.gov

Dân biểu Cao Quang Ánh
Nguồn : www.josephcao.house.gov

Tại Mỹ, ông Cao Quang Ánh nổi tiếng kể từ khi đắc cử dân biểu Quốc hội Liên bang năm 2008.
Báo chí và các cơ quan truyền thông đã dành nhiều chương trình giới thiệu người Mỹ gốc Việt đầu tiên đặt chân vào điện Capitol.
Nhà báo Ngô Nhân Dụng trả lời phỏng vấn từ California.
Trong tuần qua, ông Cao Quang Ánh càng nổi tiếng thêm khi ông là dân biểu duy nhất của đảng Cộng Hòa bỏ phiếu ủng hộ dự án cải tổ Bảo hiểm y tế của một tổng thống thuộc đảng Dân Chủ.
Từ California, nhà báo Ngô Nhân Dụng trả lời các câu hỏi của Bảo Thạch

Wednesday, October 7, 2009

Thời sự Canada

Thời sự Canada